BẢN KIẾN NGHỊ - XEM XÉT ĐÁNH GIÁ VỀ DỰ ÁN: HỒ CHỨA NƯỚC KA-PÉT, HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN TỪ GÓC ĐỘ DI SẢN LỊCH SỬ, VĂN HÓA – XÃ HỘI
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Kính gửi: Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Hội Đồng Dân Tộc, các uỷ ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội các đại biểu quốc hội, các đại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận-Bình Thuận
Ninh Thuận, ngày 10 tháng 10 năm 2023
***
BẢN KIẾN NGHỊ - XEM XÉT ĐÁNH GIÁ
VỀ DỰ ÁN: HỒ CHỨA NƯỚC KA-PÉT, HUYỆN HÀM THUẬN NAM, TỈNH BÌNH THUẬN
TỪ GÓC ĐỘ DI SẢN LỊCH SỬ, VĂN HÓA – XÃ HỘI
Địa điểm: Huyện Hàm Thuận Nam, Tỉnh Bình Thuận
Chúng tôi, những công dân Việt Nam, gồm những người thuộc dân tộc Cham và dân tộc ngoài Cham, đồng kiến nghị các ban ngành, Đại biểu quốc hội được nêu trên đây xem xét đánh giá tác động Văn hóa-Lịch sử, Tôn giáo – Tín Ngưỡng ở dự án “Hồ chứa nước Ka-Pét Bình Thuận” huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận.
Dự án “Hồ chứa nước Ka Pét” là dự án đã được Quốc hội ban hành chủ trương đầu tư tại Nghị quyết số 93/2019/QH14 với mục tiêu: Cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp; Cấp nước thô cho khu công nghiệp và sinh hoạt của người dân; Phòng, chống lũ và cải tạo môi trường, điều tiết nước cho vùng hạ du khu vực Hàm Thuận Nam và tỉnh Bình Thuận.
Tuy nhiên, trong hơn 600ha diện tích được quy hoạch xây dựng hồ chứa nước Ka Pét ở xã Mỹ Thạnh, có hơn 10ha quần thể di tích được xem là Khu Thánh tích quan trọng đối với người Cham và người Raglai ở khu vực Ninh-Bình Thuận. Tuy nhiên, trong hồ sơ Đánh giá tác động môi trường của Dự án Hồ chứa nước Ka-Pét (ĐTM) đã không đưa nội dung thông tin của khu Thánh tích thiêng liêng vào báo cáo (ĐTM).
Về Ý kiến đánh giá và Ý nghĩa của quần thể khu Thánh tích về mặt Văn hóa-Lịch sử, Tôn giáo – Tín Ngưỡng chúng tôi có đính kèm nội dung chi tiết ở Phần II của Bản kiến nghị này, ở Phần đầu này xin được phép nhắc đến hai nhân vật lịch sử gắn với hai điểm di tích quan trọng liên quan đến “Đại lễ Hành hương” của cộng đồng người Cham và Raglai ở hai khu vục Ninh-Bình Thuận. Đó là: Po Cei Khar Mâh Bingu và Po Haniim Per.
Trải qua 300 năm lịch sử (từ 1698) tồn tại của tỉnh Bình Thuận, cùng với sự hình thành khai phá vùng đất Tánh Linh, Đức Linh, Po Cei Khar Mâh Bingu và Po Haniim Per, là hai trong số những vị tiền hiền khẩn hoang vùng đất trải rộng từ vùng Nông Tang đến khu vực Mỹ Thạnh, Hàm Cần, rồi là Đồng Kho, Đồng Me, La Ngâu, Đa Mi của huyện Hàm Thuận Nam, Hàm Thuận Bắc, Tánh Linh và Đức Linh ngày nay.
Po Cei Khar Mâh Bingu và Po Haniim Per là hai nhân vật lịch sử có công lao to lớn, nhận được nhiều sắc phong thần qua các đời vua triều Nguyễn như: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cho đến Khải Định.
Để tưởng nhớ công ơn khai hoang lập địa to lớn ấy, cộng đồng người Cham và người Raglai đã lập nên hai đền thờ tưởng niệm tại nơi an nghỉ những ngày cuối đời của hai Ngài ở trong khu rừng sâu trong thung lũng Ka-Pét này. Từ đó hàng năm cộng đồng người Cham Hàm Thuận và Tánh Linh tổ chức những cuộc hành hương về khu dinh điền này để rồi sau đó Cộng Đồng Người Cham Nam Bình Thuận xem đây là Khu Thánh Tích thiêng liêng để thực hành nghi lễ hành hương gắn lệ thường niên từ xa xưa đến ngày nay. Cùng với các nghi lễ lớn và quan trọng trong năm như: Lễ Kate (tháng 7 Cham lịch), Lễ Cambur (tháng 9 Cham lịch), Lễ Tế Trâu (tháng 4 Cham lịch), Lễ Tagok Bimong (tháng 12 Cham lịch),…Đây là các nghi lễ quan trọng và lớn nhất trong sinh hoạt văn hóa của người Cham.
Xét thấy rằng:
- Những sinh linh Cham- Raglai được sinh ra quanh chốn Ninh-Bình Thuận và các vùng lân cận, những sinh linh ý thức nơi chốn mình được sinh ra và nơi chốn ấy không thể không nhớ đến những tiền nhân đã có công khai sinh khẩn hoang vùng đất.
- Chúng tôi, những con người đang có tiếng nói đại điện cho những sinh linh thế hệ sau được sống trên mảnh đất này, ý thức được rằng: thế hệ sau cần phải giữ gìn và bảo vệ nơi chốn thiêng liêng của Khu Thánh Tích ấy.
- Chúng tôi, chủ sở hữu di sản văn hoá phải có trách nhiệm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá theo khoản 2, điều 9, luật Di sản văn hóa được quốc hội ban hành năm 2001.
- Và nhà nước phải có chính sách bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hoá nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo khoản 1, điều 9, luật Di sản văn hóa được quốc hội ban hành năm 2001.
Với những lý do xét thấy nêu trên, chúng tôi viết bản kiến nghị kính mong các Đại biểu quốc hội xem xét nội dung kiến nghị sau:
- Ủy ban Thường vụ Quốc Hội, Hội Đồng Dân Tộc, các uỷ ban của Quốc hội, các đoàn đại biểu Quốc hội các đại biểu quốc hội, các đại biểu quốc hội tỉnh Ninh Thuận-Bình Thuận, chủ đầu tư dự án “Hồ chứa nước Ka Pét” cần tiến hành đánh giá các tác động Văn hóa-lịch sử, Tôn giáo – Tín ngưỡng, tham vấn ý kiến từ phía cộng đồng để đánh giá đúng giá trị và tác động của dự án đầu tư “Hồ chứa nước Ka Pét” để có những phương án mang tính xây dựng hòa hợp, đồng thuận của cả cộng đồng, ngoài “Báo cáo đánh giá tác động môi trường”.
- Chúng tôi đề nghị phía Dự án cần xem xét và lập hồ sơ “Báo cáo tác động Văn hoá-lịch sử, Tôn giáo – Tín ngưỡng” nằm trong phạm vi lòng hồ Ka Pét này. - Chúng tôi kiến nghị ban chính phủ cần có hướng điều chỉnh quy hoạch và thiết kế, thiết lập vành đai bảo vệ Di sản đối với quần thể Thánh tích Po Cei Khar Mâh Bingu, nhằm gìn giữ, tôn tạo và phát triển giá trị Di sản mà chính phủ đã và đang ưu tiên.
Kính mong các cơ quan ban ngành Trung ương và Địa phương sớm hồi đáp Bản Kiến Nghị thông qua thông tin của người đại diện liên lạc của Cộng đồng Cham như sau:
- Cá nhân đại diện cho nhóm kiến nghị: Jaya Thiên
- Nghề nghiệp: Kiến trúc sư
- Địa chỉ: Ninh Thuận
- Điện thoại: *** Email: ***
Trân trọng cám ơn và mong nhận được hồi đáp sớm.
Thay mặt nhóm cộng đồng người Cham
Ký tên
Jaya Thiên
***
PHẦN II: Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ VÀ Ý NGHĨA CỦA QUẦN THỂ KHU THÁNH TÍCH VỀ MẶT VĂN HÓA LỊCH SỬ, TÔN GIÁO – TÍN NGƯỠNG
A. THÔNG TIN VỀ CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN ĐÓNG GÓP Ý KIẾN:
Chúng tôi, những người có tên là: (Đính kèm phụ lục 3)
-Nhóm cộng đồng người Cham
-Nhóm cộng đồng ngoài Cham
B. Ý KIẾN VỀ DỰ ÁN:
Kế hoạch dự án đầu tư xây dựng mới hồ chứa nước Ka Pét (Dự án cấp 2) là nhu cầu thiết thực, cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp; Cấp nước thô cho khu công nghiệp và sinh hoạt của người dân; phòng, chống lũ và cải tạo môi trường, điều tiết nước cho vùng hạ du khu vực Hàm Thuận Nam và tỉnh Bình Thuận.
Tuy nhiên, dựa vào các thông tin, báo cáo mà các cơ quan Chính phủ và, tỉnh Bình Thuận thông cáo, cho đến nay ngoài “Báo cáo đánh giá tác động môi trường” (ĐTM) của dự án hồ chứa nước Ka Pét đã được lập, thì Dự án vẫn chưa lập hồ sơ “Báo cáo tác động Văn hoá-lịch sử, Tôn giáo – Tín ngưỡng” nằm trong phạm vi lòng hồ Ka Pét này.
Đối với công tác “Đánh giá tiền khả thi của Dự án” là điều hết sức quan trọng và cần đầy đủ các cơ quan ban ngành chuyên môn tham gia cùng để có thể đưa ra các số liệu/tư liệu một cách chi tiết và rõ ràng nhất để đánh giá tính khả thi của Dự án.
Trong dự án đầu tư xây dựng mới hồ chứa nước Ka Pét, tại Hồ sơ “Báo cáo đánh giá tác động môi trường” (ĐTM), cụ thể ở Phần Mở Đầu (tại mục 5.3.1.b: Các đối tượng kinh tế - xã hội) có khả năng bị tác động bởi dự án đã chỉ ra “Bán kính 1km cách khu vực dự án không có các công trình văn hoá, tôn giáo, các di tích lịch sử nào.”. Đây là thông tin thiếu chính xác, bởi ngay trong lòng hồ hiện tồn quần thể Khu Thánh tích Po Cei Khar Mâh Bingu.
Tuỳ vào mức độ thông tin của đối tượng bị tác động bởi Dự án sẽ cần thiết phải lập thêm hồ sơ đánh giá riêng biệt đính kèm bổ sung cho báo cáo ĐTM này. Cụ thể như, dự án Hồ thuỷ lợi Kapet tác động trực tiếp đến Không gian Khu Thánh tích Po Cei Khar Mâh Bingu, đây là Không gian văn hoá-lịch sử Tôn giáo-Tín ngưỡng của cộng đồng Cham, vì thế việc lập hồ sơ đánh giá đính kèm cho ĐTM là điều hết sức cần thiết, và phải được các cơ quan ban ngành chuyên môn cùng sự tham vấn của cộng đồng thụ hưởng về Không gian văn hoá ấy. Điều ấy góp phần làm rõ ràng thêm thông tin để phục vụ công tác “Đánh giá tiền khả thi của Dự án”.
Để đánh giá đúng giá trị và tác động của dự án đầu tư “Hồ chứa nước Ka Pét”, thì chủ đầu tư cần cần xem xét các tác động Văn hóa-lịch sử, Tôn giáo – Tín ngưỡng, tham vấn ý kiến từ phía cộng đồng.
I. ĐÁNH GIÁ SƠ BỘ TÁC ĐỘNG VĂN HOÁ- LỊCH SỬ, TÔN GIÁO – TÍN NGƯỠNG:
1. Văn hóa – Lịch sử:
Trải qua 300 năm lịch sử (từ 1698) tồn tại của tỉnh Bình Thuận, cùng với sự hình thành khai phá vùng đất Tánh Linh, Đức Linh, thì Po Haniim Per và Po Cei Khar Mâh Bingu được xem là nằm trong số những vị tiền hiền khẩn hoang vùng đất.
Ba trăm năm ghi dấu lịch sử vùng đất, cũng là trải qua 300 năm khu rừng thiêng được cộng đồng người Cham – Raglai bảo vệ gìn giữ, tính linh thiêng của khu Thánh tích đã góp phần giữ lại giá trị nguyên sinh ban đầu của khu rừng, dẫu trải qua bao biến cố lịch sử.
Trong hơn 600ha diện tích được quy hoạch xây dựng hồ chứa nước Kapet ở xã Mỹ Thạnh, người Cham có hai di tích quan trọng được xem là “Khu Thánh tích” quan trọng đó là; Khu lăng mộ Po Cei Khar Mâh Bingu và Po Haniim Per, gắn với truyền thống hành hương của cộng đồng người Cham và Raglai ở 03 huyện Hàm Thuận Bắc, Hàm Thuận Nam, Tánh Linh cùng người Cham-Raglai ở khu vực Ninh-Bình Thuận.
Hành trạng của hai nhân vật lịch sử Po Haniim Per và Po Cei Khar Mâh Bingu được ghi chép lại trong nhiều tư liệu lịch sử, truyện kể, văn chương bằng ngôn ngữ Cham, các ghi chép của các nhà truyền giáo dòng Tên (MEP) bằng tiếng Pháp và cả trong các sử liệu của Nhà Nguyễn còn lưu truyền cho đến ngày hôm nay. Có thể tạm liệt kê các văn bản sau: Damnây Po Sah Inâ, Damnây Po Haniim Per, Damnây Po Cei Khar Mâh Bingu, Adaoh Damnây Po Cei Khar Mâh Bingu,…
- Về Po Haniim Per.
Sau một biến cố lịch sử, ông lên núi (nay là Núi Ông/Po Harum Cek/Cek Haniim Per) lánh trú rồi kết giao và cưới công chúa Cangua (Raglai). Ngài qua đời tại đây và được người dân lập đền thờ (Bimong) tại chỗ. Nơi lập đền thờ được cộng đồng xem là Rừng thiêng, Thánh tích.
Ngọn núi định vị mà Po Haniim Per lưu trú, lánh nạn chính là Núi Ông (nay là khu Bảo tồn Thiên nhiên Núi Ông). Khu vực nơi ông lánh trú là một thung lũng được bao bọc bởi hệ thống núi Ông, núi Baoh Huoi và sông La Ngà. Thung lũng Kapet là nơi cư trú lâu đời của người Cru (Chu-ru), Raglai, Kahow, Cham,…
Ngài cũng nhận được nhiều sắc phong thần từ thời vua Minh Mạng thứ 5 (1824) cho đến Khải Định năm thứ 2 (1917), với các tên gọi phiên âm chữ Hán-Việt như: Niêm Băn Phiên Dương, Po Niêm Băn.
(Trong “Sắc mệnh chi bảo” Khải Định năm thứ 2, ngày 18 tháng 3 Âm lịch (08/5/1917) có đoạn viết:
“Sắc cho Sách Man, xã Dụ, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận, trước đã phụng sự thờ Thần bản xứ Thành hoàng giữ nước giúp dân bày tỏ công đức đối với nhân dân, linh ứng xưa nay. Nay ta được soi sáng bởi sự nghiệp lớn lao, trẫm luôn luôn nghĩ đến công ân của Thần tỏ bày hiệu lệnh, nên trước phong làm Đôn Ngưng Dực Bảo Trung Hưng tôn Thần. Chuẩn cho thờ phụng thần, ta và bá tính trông mong thần giúp đỡ nhân dân. Kính thay!”
Đền thờ Po Haniim Per (Po Harum Cek), được người Cham nơi đây gọi là Bimong, xưa đền vốn ở trong khu Thánh tích trong rừng sâu, là nơi Ngài ẩn cư cho đến cuối đời. Đến năm 1968, vì điều kiện chiến tranh và đường sá hiểm trở, nên cộng đồng mới xin thỉnh Ngài về thờ trong làng Palei Pacam (Khu phố Cham, Lạc Tánh), và duy trì hành hương đến khu Thánh tích. Hằng năm, cộng đồng có 3 kì lễ lớn dành cho Ngài vào dịp Lễ Tế Trâu, Lễ Cambur, Lễ Tagok Bimong.
- Về Po Cei Khar Mâh Bingu
Po Cei Khar Mâh Bingu là biệt danh (tên tục) của Po Cei Sah Bin Bingu, vì ông hay mặc chiếc chăn quấn màu/bằng vàng. Ngoài ra ông còn có các tên gọi khác như Po Cei, Ngài vốn là hậu duệ của Po Harum Cek, là Đại danh tướng trong triều đại vua Po Ramé (1627-1651), ông thường cầm roi và một tấm khăn ngao du khắp xứ. Vì có mối bất hoà với Po Ramé (vụ chặt cây Kraik/Lim thần; và đánh bại quân Đại Việt khi quân Đại Việt tiến vào đất Pandurangga), nên Ngài đã quay lại lánh trú nơi quê nhà (thung lũng Kapet) và qua đời ở nơi Thánh tích này, Ngài được người dân lập đền thờ, được người Cru (Chu-Ru) Cham sóc bảo vệ khu rừng thiêng này.
Khoảng năm 1990-1991, người dân mới xin thỉnh Ngài về điểm núi cạnh làng để dễ thờ cúng Ngài.
Cũng như Po Haniim Per, Po Cei Khar Mâh Bingu cũng nhận được nhiều sắc phong thần, người Việt gọi Ngài là Cậu Hoa, và được người dân lập đền thờ cúng. Hiện có hai địa phương lập đền thờ Ngài, một ở Lạc Tánh (Tánh Linh, điểm núi gần làng), một ở Nông Tang (Lâm Thuận, Hàm Phú, Hàm Thuận Bắc). Lễ lớn nhất dành cho Ngài hằng năm vào dịp Lễ Tagok Bimong.
(Tóm tắt Sắc mệnh chi bảo): “Bình Thuận tỉnh, Hàm Thuận phủ, Nông Tang Xã. Cậu Hoa tôn thần, hộ quốc tý dân nhẫm trứ linh ứng tư, kim chánh trị trẫm tứ tuần Đại khánh tiết, kinh ban bửu chiếu đàm ân lễ long đăng trật trứ phong vi Quang ý Dực Bảo Trung Hưng Đẳng Thần, chuẩn kỳ phụng sự. Khâm tai! Khải Định cửu niên, thất nguyệt nhị thập ngũ nhật.”
Trong thung lũng lòng hồ Kapet hiện tồn quần thể Khu Thánh Tích (rộng khoảng 10ha) mang giá trị văn hoá lịch sử, tôn giáo-tín ngưỡng đặc sắc, bao gồm:
- Suối mài đao [Craoh thah daw] nơi Po dừng chân nghỉ ngơi, mài đao, cũng là ranh vào trung tâm khu thánh tích của Po.
- Đền Po [Bimong Po] Nơi Po an nghỉ
- Lán chia thịt (trâu) [mblang rabha ralaow (kubaw)] - Bãi phơi lưới chài, thuyền,... [mblang bambu jal ahaok]
- Bãi luyện binh [mblang pathrem jabuel] (Thành đá bẫy thỏ, bàn cờ Po) (pateng tapay, pataw catur) Nơi có bàn đá Po ngự để luyện binh pháp (bàn cờ) và chế thuốc điều trị cho lính khi bị thương.
- Khu trồng thuốc nam [mblang pala phun jru Po] - Khu điển tích Po xử tội thuộc hạ [mblang bacan inâ gah yak-bak]
- Cánh đồng ruộng của Po [hamu Po] Cánh đồng trồng lúa của Po, nơi sản xuất cung cấp lương thực. Con suối nơi Po đắp đập dâng nước vào Cánh đồng.
- Khu vòng thành xếp bằng đá [bal pataw tali]
Vị trí quần thể khu Thánh tích này thuộc Khu Đá Bàn thôn 1 xã Mỹ Thạnh, huyện Hàm Thuận Nam, tỉnh Bình Thuận, cách trung UBND xã Mỹ Thạnh khoảng 3,5km đường chim bay theo hướng Tây-Bắc.
Toạ độ khu trung tâm Thánh tích được ghim trên bản đồ Gogole Earth: 11°05'48.8"N 107°51'54.1"E.
Sơ đồ vị trí các điểm tích trong quần thể Thánh tích Po Cei
Đền Po Cei trong quần thể
Thánh tích Hành lễ đêm tại quần thể Thánh tích Po Cei
2. Tôn giáo – Tín ngưỡng:
Cả hai nhân vật lịch sử Po Haniim Per và Po Cei Khar Mâh Bingu gắn liền với truyền thống hành hương của người Cham và Raglai, mỗi kì hành hương quy tụ trên dưới 500 người từ các nơi không quản đường xa, núi rừng cách trở để về nơi Thánh tích làm lễ tế trâu cho Ngài. Thành phần tham dự bao gồm các Chức sắc phong tục, giới tri thức, người dân từ người già đến trẻ con.
Các nhân vật lịch sử này, sau khi đi vào đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng thì đã nhận nhiều sắc phong thần của các đời nhà Nguyễn. Các bản sắc phong được đề cập ở trên hiện đang được lưu giữ ở hai ngôi đền Po Harum Cek (Po Haniim Per, Lạc Tánh, huyện Tánh Linh) và đền Po Cei Khar Mâh Bingu (Lăng Cậu Hoa, Hàm Thuận Bắc).
Hằng năm, cộng đồng có 3 kì lễ lớn dành cho Ngài vào dịp Lễ Tế Trâu, Lễ Cambur, Lễ Tagok Bimong,… nay cộng đồng xin tổ chức thêm vào dịp lễ Katé ở địa phương.
Vào dịp lễ Lễ Tagok Bimong (Đại lễ Hành hương), đây là lễ lớn nhất dành cho Ngài, sau khi thực hiện nghi lễ tại địa phương xong, cộng đồng Cham, Raglai và cả Kinh (Việt) ở ba Huyện (Huyện Hàm Thuận Bắc, Huyện Hàm Thuận Nam, và Huyện Tánh Linh) cùng với các chức sắc và tộc họ Cham ngoài tỉnh Bình Thuận cùng tham gia Đại lễ Hành hương hướng về khu Thánh tích trong thung lũng Kapet này theo lệ thường niên.
Đại lễ tế trâu (Đại lễ Hành hương) được diễn ra trong 3 ngày 2 đêm (hoặc 2 ngày 1 đêm) tuỳ thuộc vào tính chất, tính liên kết của chuyến Hành hương. Trong Đại lễ này bao gồm các tiểu lễ như: hát lễ mời thần, hát lễ kể công ơn của thần, lễ tắm rửa mộc dục của Po, lễ cầu an, lễ tế trâu,…
Chu kì thực hiện Hành hương về Po Cei tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế và hoàn cảnh cho phép. Trước đây, vì điều kiện khó khăn, cộng đồng mới làm lễ xin Po Cei thực hiện theo chu kì 7 năm một lần, sau khi có điều kiện và thuận tiện hơn nên đã xin giảm còn 4 năm một lần hành hương về thăm Po Cei. Đây cũng là dịp để cho các thế hệ tiếp nối được kế thừa tinh thần, gìn giữ bản sắc Văn hóa thông qua hình thức nghi lễ, thăm viếng và được nghe kể về các điển tích của Po trong hành trình Hành hương.
II. Kết Luận
Trải qua 300 năm phát triển của tỉnh Bình Thuận, quần thể Khu Thánh Tích Po Cei Khar Mâh Bingu là minh chứng/ghi dấu cụ thể cho quá trình lịch sử vùng đất này mà giá trị khu Thánh tích này không có nơi nào có thể thay thế.
Ngoài ra, quần thể Khu Thánh tích chứa đựng các giá trị vật thể (di tích) và giá trị phi vật thể (không gian tôn giáo – tín ngưỡng) liên quan đến các cộng đồng Cham, Raglai, Cru, Kinh, … góp phần tích cực làm giàu bản sắc văn hóa trong công cuộc Bảo tồn và Chấn hưng văn hóa Việt Nam.
Trong cấu trúc xã hội Champa, thì hệ thống đền tháp là biểu tượng thiêng liêng và cao quý nhất, đại diện cho niềm tin tôn giáo – tín ngưỡng của cộng đồng, là chốn linh thiêng, nơi thần linh trú ngụ, vì thế không gian của nó cũng mang tính linh thiêng gắn chặt với không gian sinh hoạt văn hóa có từ lâu đời, cần được gìn giữ bảo tồn để phát huy giá trị.
Việc chủ đầu tư dự án “Hồ Thủy Lợi Ka Pét”, không lập hồ sơ đánh giá tác động Văn hóa-lịch sử, Tôn giáo – Tín ngưỡng là một thiếu sót nghiêm trọng. Vì thế, chính quyền tỉnh Bình Thuận cần thành lập đoàn khảo sát đánh giá chuyên môn về không gian quần thể khu Thánh tích này là điều cấp thiết. Cũng là cách để thể hiện sự tôn trọng Không gian Tôn giáo-Tín Ngưỡng của người bản địa, cộng đồng Dân tộc thiểu số, nhằm Nâng cao tinh thần Đoàn kết dân tộc theo tinh thần, chủ trương của Chính phủ đã đề ra.
Việc quy hoạch xây dựng dự án, nhưng không tham vấn cộng đồng thụ hưởng trực tiếp đến di sản tổ tiên (cộng đồng người Cham) tiềm ẩn khả năng dẫn đến Xung đột văn hóa sắc tộc thêm nghiêm trọng, phá vỡ tính Đoàn kết Dân tộc.
C. NỘI DUNG KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT:
1. Nhà nước xem xét quyền chủ thể đối với di sản, chủ thể về văn hóa (người Cham kế thừa trực tiếp đối với các di sản tổ tiên của mình).
2. Đền-tháp là sản phẩm vật thể, là kết tinh văn hóa lâu đời của người Cham (Champa), đồng thời là biểu tượng tâm linh đi đôi với nó là những thực hành về văn hóa và tín ngưỡng cần được tôn trọng. Các tác động gây ảnh hưởng đến di sản vật thể/phi vật thể cần được xem xét đánh giá cẩn thận và được sự đồng thuận của cả cộng đồng, hay có sự tham gia đánh giá góp ý từ phía cộng đồng Cham (Người dân-Trí Thức-Chức sắc) nhằm đem lại kết quả mang tính khách quan.
3. Các quan niệm về tín ngưỡng tôn giáo, tính thiêng liêng đối với không gian di tích phải dựa trên các tri thức truyền thống của cộng đồng Cham.
4. Việc lấy ý kiến, hay sự đồng thuận của cộng đồng đối với các dự án sử dụng hay các dự án có tác động đối với di sản (vật thể/phi vật thể) của cộng đồng Cham nhằm mục đích phát huy tiềm lực kinh tế địa phương, thì cần sự đồng thuận của cộng đồng bản địa, nhằm xây dựng quy chế, nội dung phù hợp với quan điểm của cộng đồng.
5. Xác định lại và công khai ranh khu vực quần thể khu Thánh tích.
6. Tổ chức đoàn chuyên gia của các sở, ngành liên quan, gồm Bảo tàng tỉnh Bình Thuận, các chuyên gia khảo cổ học, dân tộc học, các nhà nghiên cứu văn hóa người Cham, Cục Di sản văn hóa Bộ VH-TT-DL, chính quyền và đại diện cộng đồng địa phương... tiến hành khảo sát, đánh giá giá trị văn hoá, lịch sử của quần thể khu Thánh tích Po Cei Khar Mâh Bingu, xác định ý nghĩa của khu di tích đối với sinh hoạt tín ngưỡng truyền thống của cộng đồng người Cham tại Bình Thuận. Trên cơ sở đó đưa di tích vào Danh sách kiểm kê di tích LS – VH, tiến đến làm hồ sơ xếp hạng di tích Lịch sử - Văn hóa cấp tỉnh.
7. Mời cơ quan chuyên môn phụ trách về di sản của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch tham vấn, thẩm định về quần thể khu Thánh tích.
8. Lấy ý kiến tham vấn của Mặt trận Tổ quốc tỉnh, Ban Tôn giáo Chính phủ, Hội Di sản Việt Nam, sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bình Thuận, Bảo tàng tỉnh Bình Thuận,…và các ban ngành chuyên môn khác.
9. Công bố công khai để lấy ý kiến nhân dân địa phương về dự án này.
Quần thể Thánh tích Po Cei Khar Mâh Bingu là cụm di tích đặc biệt có giá trị không những về mặt Văn hóa - Lịch sử, mà đi kèm với nó bao gồm cả không gian văn hóa đặc thù mà tỉnh Bình Thuận đang có. Việc đánh giá đúng tầm quan trọng của quần thể Thánh tích sẽ giúp định hướng đúng thang giá trị mà quần thể Thánh tích này mang đến, đồng thời có những đánh giá phù hợp với những tác động liên quan đến quần thể Thánh tích nhằm phát huy giá trị đặc thù địa phương, phù hợp định hướng phát triển du lịch văn hóa mà việc tôn trọng và phát huy đúng giá trị văn hóa tâm linh sẽ mang lại tính bền vững cho phát triển du lịch văn hóa cho tỉnh nhà.
Một lần nữa, cộng đồng người Cham kính mong các cơ quan ban ngành xem xét và đánh giá kỹ lưỡng, cẩn trọng các tác động đến Văn hóa-lịch sử, Tôn giáo - Tín ngưỡng để có những phương án mang tính xây dựng hòa hợp, đồng thuận của cả cộng đồng. Mong Nhà nước kịp thời có hướng điều chỉnh quy hoạch và thiết kế, thiết lập vành đai bảo vệ Di sản đối với quần thể Thánh tích Po Cei Khar Mâh Bingu, nhằm gìn giữ, tôn tạo và phát triển giá trị Di sản mà Chính phủ đã ưu tiên.
Kính mong các cơ quan ban ngành Trung ương và Địa phương sớm hồi đáp/trả lời Bản Kiến Nghị thông qua thông tin của người đại diện liên lạc chung của Cộng đồng Cham được nêu ở Phần I như trên.
Trân trọng cảm ơn.
***
Phụ lục 1: Hình ảnh
Một số ảnh chụp về khu thánh tích Vị trí quần thể khu Thánh tích Po Cei Khar Mâh Bingu nằm trong ranh dự án Hồ thuỷ lợi Ka Pét.
Nơi an nghỉ của Po Cei Khar Mâh Bingu nằm trong quần thể khu Thánh tích
Vòng thành đắp đá
Khu điển tích Bãi phơi lưới chài của Po Cei
Khu điển tích Po xử tội thuộc hạ (di tích các vòng tròn xếp đá)
Phụ lục 2: Link Videos về Đại lễ Hành Hương đến Thánh tích Po Cei:
Link 01: Trên đường hành hương về Lăng mộ Pô Haniim Per(Đại Lễ hành hương tế Trâu).
https://www.youtube.com/watch?v=8uz1dostUFY
Link 02: Nghỉ đêm tại Lăng mộ Pô Cei với Lễ Cầu an xin một chuyến đi an lành (Đại Lễ hành hương tế Trâu)
Link 03: Lễ mộc dục tắm gội cho Thần.(Hành hương về vùng đất thiêng Pô Cei).
Phụ lục 3: THÔNG TIN VỀ CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN ĐẠI DIỆN ĐÓNG GÓP Ý KIẾN:
Chúng tôi, những người đại diện có tên là:
(***)
Jaya Thiên Liên hệ tác giả đơn thỉnh cầu